Đây chính là lúc cần chú ý tới biện pháp tu từ. Cuốn sách này là một ví dụ. Trên phương diện nào đó, không có nhiều điều để nói về các tác phẩm khoa học thường thức.
Các luật sư nắm rất chắc vấn đề này. Một triết gia sẽ dẫn người đọc hướng tới kinh nghiệm chung, thông thường của họ để kiểm chứng, xác thực hay ủng hộ những gì người viết đưa ra. Nhờ đó, trí tuệ của bạn được nâng lên một tầm cao mới, từ hiểu ít đến hiểu nhiều.
Nhưng độc giả thấy rằng người anh hùng, dù không đáng phải chịu số phận khắc nghiệt như miêu tả, ít nhất cũng hiểu được tại sao mình lại phải chịu như vậy. Nếu độc giả không thể nói Tôi tán thành thì ít nhất cũng nên nói rõ tại sao mình lại phản đối, hay giải thích tại sao mình không thể ngay lập tức đưa ra nhận xét cụ thể. Năm 1859, Darwin xuất bản một cuốn sách rất nổi tiếng.
Bạn chỉ có thể hoàn thành nhiệm vụ đó bằng cách đọc qua một lượt từ đầu đến cuối cuốn sách. Người nói thường không chỉ muốn được lắng nghe mà còn muốn được tán thưởng phần nào. Quy tắc này đúng với mọi loại sách.
Ở đây, có ba vấn đề có thể được đặt ra dưới dạng câu hỏi: (1) Tiến bộ có cần thiết không, hay nó chỉ là sự tiếp giáp của các sự kiện? (2) Tiến bộ đương nhiên sẽ tiếp tục, hay cuối cùng nó sẽ kết thúc hoặc rơi vào trạng thái bất biến? (3) Có sự tiến bộ trong bản chất tự nhiên của con người không hay chỉ diễn ra trong các điều kiện bên ngoài của đời sống con người? Nếu định công kích cuốn sách thì bạn càng phải biết những gì cuốn sách không đề cập. Bốn câu hỏi trên đã tóm lược nhiệm vụ tổng thể mà một độc giả phải làm.
Và bây giờ bạn có thể hoàn thành việc đọc phân tích cuốn sách. Khi không có những cố gắng này, hầu hết độc giả sẽ không ý thức được mình đã bỏ lỡ những gì trong tác phẩm. Và dù ta có thể tiết kiệm thời gian, công sức với những thông tin cô đọng được các biên tập viên tóm tắt trên tập san thì ta cũng không thể bỏ qua hoàn toàn việc đọc.
Đọc phần này có thể sẽ giúp bạn hiểu rõ điều mà chúng tôi đang cố gắng làm. Bạn sẽ có cơ hội hiểu rõ hơn khi đọc lại lần thứ hai, nhưng điều này yêu cầu bạn phải đọc hết cuốn sách ít nhất một lần. Ví dụ các câu hỏi mang tính lý thuyết sau: Vấn đề đó có tồn tại không? Nó thuộc loại nào? Tại sao nó tồn tại? Nó có thể tồn tại trong điều kiện nào? Nó phục vụ mục đích gì? Hậu quả do sự tồn tại của nó gây ra? Những thuộc tính đặc trưng của nó là gì? Mối liên hệ giữa nó và những vấn đề khác cùng loại hoặc khác loại như thế nào? Nó sẽ diễn biến ra sao? Hoặc những câu hỏi mang tính thực hành như: Nên tìm kiếm những mục tiêu nào? Lựa chọn phương tiện nào cho một mục đích cụ thể? Phải làm gì và theo trình tự nào để đạt được mục đích nhất định? Trong điều kiện hiện tại, làm thế nào là đúng hoặc tốt hơn nên làm gì? Trong hoàn cảnh nào thì làm việc này tốt hơn làm việc kia?
Tất nhiên nói như trên không có nghĩa là nếu người thầy hiện hữu trả lời câu hỏi của bạn, thì bạn không còn gì để làm. Trong những năm 1920, 1930, phương thức này rất thông dụng. Việc đọc qua cuốn sách không giúp bạn hiểu hết được tính phức tạp của chủ đề hay toàn bộ ý tứ sâu xa mà tác giả gửi gắm, nhưng nó sẽ thực hiện hai chức năng chính.
Một tác giả có thể không rút ra được kết luận tiềm ẩn trong các bằng chứng hay nguyên lý của mình, làm cho quá trình suy luận của anh ta chưa hoàn thành. Tác giả khẳng định điều mình cho là đúng hoặc phủ nhận điều mà mình cho là sai. Để tìm hiểu các khả năng này, trước hết, bạn cần xác định xem từ khó hiểu đó có một hay nhiều nghĩa.
Khi tất cả tác giả chỉ đưa ra hai câu trả lời, vấn đề trở nên đơn giản. Nhưng một số nhà văn khác lại cho rằng tình yêu không phải sự vị kỷ mà là lòng vị tha thuần khiết. Nói cách khác, bạn sẽ thấy tìm hiểu một bài thơ không hề khó như bạn tưởng.